Bài viết bước đầu nhìn lại quá trình giới thiệu, nghiên cứu và vận dụng lý thuyết tiếp nhận tại Việt Nam từ những năm 1970 đến nay. Đưa ra một số nhận xét về việc dịch và vận dụng lý thuyết này vào thực tiễn nghiên cứu văn học Việt Nam.

Bạn đang xem: Lý thuyết tiếp nhận văn học

ĐẶT VẤN ĐỀ

Hiện nay trong giới nghiên cứu tại Việt Nam vẫn chưa có sự đồng thuận trong việc định danh khâu cuối cùng của tiến trình văn học là người đọc. Các khái niệm mỹ học tiếp nhận, lý thuyết tiếp nhận, tiếp nhận văn học vẫn đang có nội hàm tương đương nhau.

Trong ba khâu của một tiến trình văn học là nhà văn, tác phẩm và người đọc thì khâu cuối chỉ thực sự được lý luận văn học quan tâm vài thập kỷ trở lại đây.


Tiếp nhận văn học là một mảng lý luận văn học đang còn để ngỏ. Nếu xem hoạt động của văn học bao gồm hai mảng lớn sáng táctiếp nhận thì bản thân sự tiếp nhận đã hàm chứa một nửa lý luận văn học

. Ý kiến trên đây của Trần Đình Sử trong một bài viết cách đây hơn hai thập kỷ đã cho thấy được tầm quan trọng của lý thuyết tiếp nhận. Có thể nói rằng có sáng tác là có tiếp nhận, nhưng tiếp nhận với tư cách là một lý thuyết, một phương pháp nghiên cứu, là khâu cuối của một tiến trình văn học thì phải đến nửa sau thế kỷ XX mới được thừa nhận. Nó gắn liền với tên tuổi của hai nhà nghiên cứu người Đức Wolfgang Iser và Hans Robert Jauss. Các công trình lý luận của hai ông và những người kế tục đường hướng nầy đã tạo lập một trường phái mới trong nghiên cứu văn học: trường phái Konstanz (Đức). Sự đóng góp của hai ông và những người kế tục làm cho “… từ ngữ Konstanz đã trở thành một thuật ngữ, một khái niệm trong thế giới hàn lâm học viện nói chung, trở thành một trường phái khoa học, lý luận văn học nổi tiếng” (Nguyễn Thị Thanh Hương, 1993, Tạp chí Văn học, số 6, tr. 56-57). “Ở Việt Nam khoảng hai thập niên gần đây, một số nhà nghiên cứu đã bắt đầu ý thức được tầm quan trọng của việc nghiên cứu văn học theo hướng lịch sử chức năng. Trong nhiều bài viết trên các tạp chí và một số chuyên khảo xuất bản gần đây, lý thuyết tiếp nhận đã bước đầu được giới thiệu tới công chúng Việt Nam” (Nguyễn Văn Hạnh – Huỳnh Như Phương, 1998, trang 140).

*
Đại học Konstanz (Đức)

MỘT CÁI NHÌN CHUNG

Người đề cập đến khâu tiếp nhận như là một phương pháp nghiên cứu mới ở Việt Nam là Nguyễn Văn Hạnh trong một bài viết có tên Ý kiến của Lê-nin về mối quan hệ giữa văn học và đời sống. Ông viết “Giá trị của một tác phẩm thật ra không phải chỉ đóng khung lại trong phạm vi sáng tác mà còn lan rộng ra đến phạm vi thưởng thức”. Chính ở khâu thưởng thức tác phẩm mới có ý nghĩa xã hội thực tế của nó. Quan điểm này tất yếu sẽ dẫn đến những tiêu chuẩn mới để đánh giá tác phẩm, đến một phương pháp nghiên cứu mới ”

(Tạp chí Văn học,1971, số 6, tr.96). Ở một đoạn khác ông khẳng định “trong khâu sáng tác giá trị là cố định và ở thế khả năng; ở trong khâu thưởng thức, trong quan hệ với quần chúng giá trị mới là hiện thực và biến đổi ” (Tạp chí Văn học,1971, số 6, tr.96). Ý kiến của ông trong bài viết này đã châm ngòi cho một cuộc tranh luận trên Tạp chí Văn học từ năm 1971 đến cuối năm 1972 với các ý kiến của Nam Mộc, Sơn Tùng, Phùng Văn Tửu, Nghĩa Nguyên, Nguyễn Minh, Văn Khang, Vũ Tuấn Anh…

Bài viết của Nguyễn Văn Hạnh cho thấy sự nhạy cảm và ý nghĩa thời sự của vấn đề do tác giả đã đặt ra, khi lý thuyết tiếp nhận mới thịnh hành ở nhiều nước trên thế giới.

Tại miền Nam, trong giai đoạn 1954-1975, Nguyễn Văn Trung cũng đã đề cập đến vấn đề người đọc, nhưng ông chỉ mới đụng chạm đến chứ chưa giải quyết trực diện và triệt để (xem Lược khảo văn học, tập III).

Sau ngày đất nước thống nhất, giới nghiên cứu Việt Nam có điều kiện hơn trước trong việc tiếp cận những công trình nghiên cứu về mỹ học tiếp nhận của giới nghiên cứu nước ngoài, mà chủ yếu là các nước xã hội chủ nghĩa như Liên Xô, Cộng hòa dân chủ Đức…

Năm 1978, Tạp chí Văn học cho công bố bài của Man-phơ-ret Nao-man Song đề của “Mỹ học tiếp nhận”, do Huỳnh Vân dịch. Bài viết có thể được xem như là một phần tóm tắt sơ lược của công trình tập thể Xã hội văn học đọc do tác giả làm chủ biên. Tác giả của báo cáo này đã phản bác lại quan điểm tư sản của H.R. Jauss về vấn đề tiếp nhận, cũng như về chức năng thanh lọc của tác phẩm đối với người đọc trong quá trình tiếp nhận.

Cũng trong năm này, nhà xuất bản Tác phẩm Mới thuộc Hội Nhà văn Việt Nam cho công bố bản dịch cuốn Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của văn học của M.B. Khrapchenco. Trong đó chương 5 bàn trực tiếp về tiếp nhận văn học có tên Thời gian và cuộc sống của tác phẩm văn học. Tác giả công trình khẳng định: “… phương pháp nghiên cứu văn học theo chức năng là một trong những khuynh hướng quan trọng và có triển vọng của ngành nghiên cứu văn học mác xít” ( M. B. Khrapchenko,1978, trang 331).

Đến năm 1980, Hoàng Trinh công bố bài Văn học so sánh và vấn đề tiếp nhận văn học, trong bài viết này, tác giả đã nhìn vấn đề tiếp nhận văn học từ góc nhìn của văn học so sánh, tiếp nhận được đề cập ở đây là tiếp nhận trên bình diện sáng tác.

Từ góc nhìn văn học so sánh, Lưu Văn Bổng đã lưu ý đến việc cần phân biệt khái niệm ảnh hưởng và tiếp nhận trong nghiên cứu. Năm 2011, Nguyễn Văn Dân khi đề cập đến Một số phương pháp chủ yếu được vận dụng trong văn học so sánh đã đề cập đến phương pháp xã hội học tiếp nhận cũng như phương pháp tâm lý học tiếp nhận. Điều này cho thấy, tùy đối tượng nghiên cứu, có thể vận dụng nhiều phương pháp tiếp cận khác nhau mà giới nghiên cứu thường gọi là phương pháp tiếp cận liên ngành.

Vương Anh Tuấn đã khẳng định Vị trí và vai trò tích cực của người đọc trong đời sống văn học (1982), người viết nêu lên và phân tích một số hình thái, đặc điểm chung của người đọc, làm tiền đề cho những nghiên cứu sâu và cụ thể hơn. Năm 1990 tác giả trở lại vấn đề người đọc qua bài viết Xung quanh việc tiếp nhận văn học hiện nay nhưng tập trung vào loại người đọc đặc biệt là nhà chuyên môn – nhà phê bình trong việc đánh giá chính xác tác phẩm, tránh sự không hiểu nhau giữa nhà văn, nhà phê bình và công chúng bạn đọc đông đảo.

Năm 1985, mỹ học tiếp nhận của trường phái Konstanz đã được Nguyễn Văn Dân giới thiệu tổng quan trên tạp chí Thông tin khoa học xã hội. Năm 1986, tác giả tiếp tục có một bài viết khác về tiếp nhận văn học, trong đó tác giả đề xuất một khái niệm mới nguỡng tâm lý trong tiếp nhận. Năm 1991, ông biên tập và giới thiệu chuyên đề Văn học nghệ thuật và sự tiếp nhận. Chuyên đề này đề cập đến những vấn đề chung của tiếp nhận văn học cũng như những khái niệm: người đọc, tầm đón nhận, khoảng cách thẩm mỹ, ngưỡng tiếp nhận, phản tiếp nhận… Năm 1999, các bài viết về tiếp nhận văn học cùng với một số bài viết khác trong tập tiểu luận Nghiên cứu văn học lý luận và ứng dụng được xuất bản và đã nhận giải thưởng lý luận phê bình năm 2000 của Hội Nhà văn Việt Nam. Năm 2004, tác giả Nguyễn Văn Dân tái khẳng định những ý kiến về tiếp nhận văn học trong chuyên luận Phương pháp luận nghiên cứu văn học. Điều đó chứng tỏ đây là một hướng nghiên cứu có nhiều tiềm năng và hứa hẹn.

Cuối năm 1986, Hoàng Trinh đã phân tích chi tiết phạm trù công chúng trong bài Giao tiếp trong văn học.

Cùng năm này, nhà xuất bản Giáo dục cho ra mắt bạn đọc công trình Lý luận văn học tập I. Đây là giáo trình lý luận văn học dùng cho các trường đại học sư phạm. Chương X của giáo trình có tên Bạn đọc và tiếp nhận văn học, phần này khẳng định tiếp nhận văn học là giai đoạn hoàn tất quá trình sáng tác, bên cạnh đó, người đọc như một yếu tố bên trong của sáng tác văn học, vai trò của người đọc đối với lịch sử văn học bước đầu đã được thừa nhận.Chương này do Trần Đình Sử phụ trách, năm 1997, bộ giáo trình này được tái bản và in gộp lại thành 1 tập do Phương Lựu chủ biên.

Năm 2002, bộ giáo trình này được viết lại, gồm 3 tập, phần về tiếp nhận văn học ở tập 1, nằm ở các chương 10, 11 và 12 do Phương Lựu biên soạn. Tập 2 của bộ giáo trình này có tên Tác phẩm và thể loại do Trần Đình Sử chủ biên, chương 1 do người chủ biên phụ trách có giới thiệu qua quan niệm về tác phẩm văn học của mỹ học tiếp nhận (trang 21-24). Quan điểm này được khẳng định lại trong chương 7, tập 2 của bộ sách gồm 2 tập có tên Giáo trình Lý luận văn học – giáo trình cao đẳng sư phạm cũng do Trần Đình Sử chủ biên, nhà xuất bản Đại học Sư phạm, Hà Nội; riêng chương 5. Tiếp nhận, thưởng thức và phê bình văn học do Phan Huy Dũng chấp bút (trang 159-187).

Có thể nhận thấy rằng tuy là người phụ trách phần tiếp nhận văn học trong giáo trình lý luận văn học ở bậc đại học và cao đẳng sư phạm cũng như sách giáo khoa bậc trung học phổ thông và là người có vai trò đáng kể trong sưu tập chuyên đề Văn học nghệ thuật và sự tiếp nhận, nhưng Trần Đình Sử khẳng định mình và được biết đến với tư cách là một chuyên gia đầu ngành chủ yếu là ở lĩnh vực thi pháp học lịch sử như ông đã từng tự nhận. Trần Đình Sử nhấn mạnh đến phản tiếp nhận như một loại hình tiếp nhận và bên cạnh đó những quan điểm cơ bản về lý thuyết tiếp nhận của thế giới cũng đã được ông đúc kết và giới thiệu trong bài Mấy vấn đề về lý luận tiếp nhận văn học, được in lại trong tập Lý luận và phê bình văn học; và tiếp đó là cuộc tranh luận – trao đổi về vấn đề tiếp nhận văn học năm 1990 và về vấn đề người đọc năm 2010 Bài viết Lý thuyết tiếp nhận và phê bình văn học (I và II) trong tập tiểu luận Văn học và thời gian là sự chắp nối lại bài viết trong cuộc tranh luận năm 1990 và một bài khác trên tạp chí Sông Hương năm 1999. Trong các tập sách sau đó cũng như trong Tuyển tập Trần Đình Sử, được biên soạn cách đây vài năm không thấy hiện diện các bài viết về tiếp nhận văn học, phải chăng vấn đề tiếp nhận văn học không còn là mối quan tâm khoa học thường trực của ông?

Năm 1990, trên Văn nghệ có cuộc tranh luận về tiếp nhận văn học giữa các tác giả Nguyễn Lai, Nguyễn Thanh Hùng, Nguyễn Văn Dân và Trần Đình Sử. Nguyễn Lai nhấn mạnh đến phẩm chất năng động chủ quan của chủ thể tiếp nhận và tiếp đó là luận điểm từ mã ngôn ngữ chuyển sang mã hình tượng, các luận điểm này vẫn được tác giả bảo lưu trong công trình Ngôn ngữ với sáng tạo và tiếp nhận văn học. Nguyễn Thanh Hùng nhấn mạnh đến quá trình biến đổi chủ thể tiếp nhận thành chủ thể văn học. Các bài viết về tiếp nhận văn học của Nguyễn Thanh Hùng được tác giả tập hợp lại thành cuốn Đọc và tiếp nhận văn chương. Nguyễn Thanh Hùng đã lưu ý đến quá trình tự phát và tự giác trong tiếp nhận, cộng đồng lý giải một tham số đáng tin cậy. Tiếp tục phương hướng nghiên cứu này, năm 2008, Nguyễn Thanh Hùng công bố công trình Đọc – hiểu tác phẩm văn chương trong nhà trường. Bên cạnh đó, Từ Sơn lưu ý đến nhu cầu thông tin và nhu cầu giải trí của công chúng trong tiếp nhận văn học từ góc độ của nhà quản lý.

Năm 1990, công trình Văn học và hiện thực của Viện Văn học có bài Quan hệ văn học – hiện thực và vấn đề tác động, tiếp nhận và giao tiếp thẩm mỹ của Huỳnh Vân, tác giả nhấn mạnh đến chức năng giao tiếp của văn học. Ông cho rằng: “… cần thiết phải nghiên cứu trên cả hai mặt lý luận và lịch sử văn học vấn đề tác động và tiếp nhận văn học và nghệ thuật ” (Huỳnh Vân, 1990, tr.221). Ông đề cập đến vấn đề cần quan niệm mối quan hệ văn học – hiện thực ở cả hai chiều: phản ánh và tác động, tiếp nhận, tức chiều từ hiện thực đến tác giả và tác phẩm và chiều từ tác giả, tác phẩm đến hiện thực. Điều đó nhằm nhấn mạnh rằng khâu tác động và tiếp nhận là không thể không được quan tâm trong nghiên cứu văn học. Nhưng hơn một thập kỷ sau đó, vẫn chưa thấy ông cho công bố tiếp những suy nghĩ mới của ông về vấn đề này.

Cùng năm, tác giả tiếp tục cho công bố trên Tạp chí Văn học bài Nhà văn, bạn đọc và hàng hóa sách hay văn học và sự dị trị. Ông cho rằng sách với tư cách là một hình thức hàng hóa nhưng là một loại hàng hóa đặc biệt. Hai giá trị dị biệt nhau cùng tồn tại trong một thực thể là hàng hóa sách. Ở bài viết này ông đề cập đến khâu trung gian giữa sáng tác và tiếp nhận văn học, nơi mà những yếu tố kinh tế – như một sự tất yếu khó tránh khỏi trong cơ chế kinh tế thị trường, kinh tế sản xuất hàng hóa – tác động vào văn học như một yếu tố dị trị. Năm 2009, nhà nghiên cứu này trở lại vấn đề mỹ học tiếp nhận qua bài Vấn đề Tầm đón nhận và xác định tính nghệ thuật trong mỹ học tiếp nhận của Hans Robert Jauss, như tiêu đề bài viết đã cho biết, bài viết lý giải khá sâu về một trong những khái niệm then chốt của mỹ học tiếp nhận: tầm đón đợi. Cũng như phân tích quan niệm của Jauss về việc xác định tính nghệ thuật của tác phẩm văn học, được coi như là một cơ sở để Jauss xác định tính lịch sử của văn học. Huỳnh Vân cũng lưu ý đến một thực tế trong quá trình vận dụng mỹ học tiếp nhận ở Việt Nam trong thời gian qua là “các tác giả đã không đưa ra những định nghĩa rõ ràng về các khái niệm trên, cho nên kết quả nghiên cứu không tránh khỏi chung chung, mơ hồ” (Nghiên cứu Văn học, số 3, tr.69). Một năm sau đó, 3. 2010, tạp chí Nghiên cứu Văn học cho công bố tiếp bài Hans Robert Jauss: lịch sử văn học là lịch sử tiếp nhận, trong bài này, Huỳnh Vân tiếp tục trình bày và lý giải những luận điểm tiếp theo của H.R. Jauss khi đề xuất những vấn đề, những phương thức cụ thể hơn cho lịch sử văn học đổi mới của ông – lịch sử văn học của người đọc. Đây là những kết quả nghiên cứu đáng tin cậy và có sức thuyết phục, vì tác giả của nó – nhà nghiên cứu Huỳnh Vân là ngừơi nghiên cứu chuyên sâu, tiếp cận tư liệu tận nguồn và cũng là những ý kiến, luận điểm mà chúng tôi sẽ còn tiếp tục trình bày, vận dụng trong những bài viết khác.

Năm 1992, lần đầu tiên tiếp nhận văn học được đưa vào giảng dạy ở trường phổ thông, bài Các giá trị văn học và tiếp nhận văn học do Trần Đình Sử chấp bút được đưa vào sách Văn 12, tập 2. Đến năm 2000, khi hợp nhất có chỉnh lý sách giáo khoa, phần này vẫn được duy trì và do Lê Ngọc Trà biên soạn.

Trong năm này Từ điển thuật ngữ văn học được xuất bản lần đầu, các khái niệm thuộc về lý thuyết tiếp nhận hiện diện rất hạn chế như các mục: nghiên cứu lịch sử chức năng, tiếp nhận văn học, ở các lần tái bản sau các khái niệm cơ bản của lĩnh vực này đã được bổ sung dần theo thời gian.

Trong số những người nghiên cứu lý thuyết tiếp nhận, thì Phương Lựu là một nhà nghiên cứu đáng lưu ý. Năm 1997 ông cho xuất bản giáo trình Tiếp nhận văn học và tiếp tục khẳng định nó trong các công trình sau đó như Mười trường phái lý luận phê bình văn học phương Tây đương đại, Lý luận phê bình văn học phương Tây thế kỷ XX, và gần đây là công trình do ông chủ biên Lý luận văn học – văn học – nhà văn – bạn đọc. Có thể thấy rằng với tư cách là một nhà giáo giảng dạy ở bậc đại học, ông đã giới thiệu tổng quan về lý thuyết tiếp nhận qua nguồn tài liệu tiếng Trung và tiếng Pháp, giúp cho người đọc có những khái niệm cơ sở, rất cần thiết cho việc tiếp tục đi sâu tìm hiểu lý thuyết này. Phương Lựu, Trần Đình Sử và một số nhà nghiên cứu lý luận văn học khác, đã có công trong việc du nhập lý thuyết tiếp nhận vào Việt Nam.

Với mong muốn đổi mới nền phê bình văn học Việt Nam, nhanh chóng hòa nhập với thế giới, năm 1993 Đỗ Đức Hiểu đã cho ra mắt bạn đọc công trình Đổi mới phê bình văn học (Nhà xuất bản Khoa học xã hội – Nhà xuất bản Mũi Cà Mau), trong đó vấn đề mỹ học tiếp nhận, cụ thể là bài Đọc văn chương là một trong những nội dung được ông đặc biệt quan tâm. Ông lưu ý đến vấn đề loại hình học người đọc và xã hội học văn chương với những ý kiến gợi mở.

Năm 1995, nhà xuất bản Giáo dục phát hành cuốn Lý luận văn học, vấn đề và suy nghĩ. Đây không phải là cuốn sách giáo khoa mà là tài liệu tham khảo chuyên sâu dành cho sinh viên và học viên các bậc học sau đại học. Công trình này do hai nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Hạnh và Huỳnh Như Phương biên soạn. Chương 5 của sách có tên Tác phẩm và người đọc do Huỳnh Như Phương viết. Tác giả trình bày 3 vấn đề chính của lý thuyết tiếp nhận: 1. Người đọc – chủ thể tiếp nhận văn học; 2. Số phận lịch sử của tác phẩm văn học qua lăng kính của sự tiếp nhận; 3. Phê bình văn học trong hoạt động tiếp nhận văn học.Ở phần thứ ba, tác giả cho rằng ở nước ta đã từng xuất hiện 3 loại phê bình chính như phê bình nghệ sĩ, phê bình xã hội học dung tục và phê bình có tính chất học thuật (Huỳnh Như Phương,1998, tr.162). Năm 2010, nhà nghiên cứu này cho công bố công trình Lý luận văn học(nhập môn), chương 6 của công trình này có tiêu đề Người đọc và tiếp nhận văn học. Các vấn đề và luận điểm cơ bản trên đây được tái khẳng định và đào sâu hơn trước, có một sự thay đổi nhỏ là phần phê bình văn học được tách thành một chương riêng và khái niệm tầm đón nhận của H.R. Jauss được dịch là chân trời chờ đợi (trang 195).

Vấn đề tiếp nhận văn chương trong nhà trường đã được tác giả Phan Trọng Luận trình bày trong Văn chương bạn đọc sáng tạo, thực ra công trình này tiền thân là cuốn Cảm thụ văn học và giảng dạy văn học (1983). Phần phụ lục của công trình này có hai bài viết giá trị của W. Iser và của Richard Beach và James Marshall. Tiếp đó, năm 2008, tác giả xuất bản sách Văn học nhà trường: nhận diện, tiếp cận, đổi mới để làm rõ và tiếp tục lý giải về việc tiếp nhận văn học trong nhà trường.

Các bài viết trên Tạp chí Văn học về tiếp nhận văn học trong nhà trường của tác giả Nguyễn Thị Thanh Hương đã được tập hợp lại trong công trình Dạy học văn ở trường phổ thông; theo nhận xét ban đầu của chúng tôi, thì các công trình của tác giả này cũng như Nguyễn Thanh Hùng, Phan Trọng Luận là nhận diện thực trạng và góp phần nâng cao việc tiếp nhận văn chương trong nhà trường phổ thông, lý thuyết tiếp nhận mà các tác giả này đề cập và vận dụng thường nghiêng về tâm lý tiếp nhận.

Ngoài ra, còn có một số tác giả khác như Phùng Văn Nghệ, Nguyễn Đức Ân, Nguyễn Trọng Hoàn cũng đã có bài viết về vấn đề này.

Tiếp tục hướng nghiên cứu tiếp nhận văn học trong nhà trường phổ thông còn có thể kể đến Giáo trình Cảm thụ văn học của Dương Thị Hương, đây là giáo trình dành cho hệ đào tạo cử nhân giáo dục tiểu học, nó được biên soạn nhằm cung cấp những kiến thức nền tảng về tiếp nhận văn học cho người học. Các tác giả như Trần Văn Thịnh, Hoàng Phong Tuấn cũng đã bước đầu vận dụng một số khái niệm của lý thuyết tiếp nhận như: tầm đón đợi, kinh nghiệm thẩm mỹ, công chúng, khoảng cách thẩm mỹ vào việc dạy và học môn văn nhằm góp phần nâng cao chất lượng, đổi mới dạy và học văn ở trường phổ thông.

Theo quan sát của chúng tôi các bài viết, công trình kinh điển của lý thuyết tiếp nhận vẫn chưa được giới thiệu ở Việt Nam; bên cạnh bài của W. Iser vừa dẫn trên đây thì nhà lý luận đương thời với ông H.R. Jauss vẫn không hơn gì, ngoài tiểu luận Lịch sử văn học như là sự khiêu khích đối với khoa học văn học thì H.R. Jauss vẫn chưa được giới thiệu gì khác. Trong khi đó, theo Nguyễn Thị Thanh Hương “tính từ năm 1949 đến 1987 riêng ông đã viết 25 cuốn sách, 78 chuyên luận, 28 bài bình luận” (Nguyễn Thị Thanh Hương, 1993, Tạp chí Văn học, số 6, tr.56).

Trong số những nhà nghiên cứu về lĩnh vực tiếp nhận văn học ở Việt Nam hiện nay thì Trương Đăng Dung là người bền bỉ và chuyên sâu. Năm 1998 ông xuất bản Từ văn bản đến tác phẩm văn học, năm 2004 ông cho công bố quyển Tác phẩm văn học như là quá trình, cuốn này là sự triển khai những luận điểm đề xuất ở Từ văn bản đến tác phẩm văn học. Ông đã khảo sát những vấn đề mà giới nghiên cứu trong nước ít (chưa) đề cập đến như: văn bản văn học và sự cụ thể hóa văn bản, ngôn ngữ và sự bất ổn của nghĩa, sự đọc và quá trình cắt nghĩa văn bản cũng như những giới hạn của lịch sử văn học.Các công trình này xứng đáng được xem là có đóng góp cực lớn trong việc giới thiệu lý thuyết tiếp nhận vào Việt Nam một cách hết sức nghiêm túc và rất đáng tin cậy như có người đã viết. Các bài viết về lý thuyết tiếp nhận của Trương Đăng Dung từ 2004 trở về trước đã được công bố phần lớn trên Tạp chí Văn học – từ 2004 là Nghiên cứu Văn học và đã được in lại trong hai công trình vừa kể; các bài viết từ năm 2005 đến nay về lĩnh vực này là sự đào sâu và mở rộng những thành tựu đã có. Những luận điểm của ông được đánh giá là mang tính hàn lâm, quy phạm, có hàm lượng khoa học và sức thuyết phục cao. Ông cũng là một trong vài người hiếm hoi ở Việt Nam kiên quyết đi theo con đường làm lý luận thuần túy.

Năm 2004 Từ điển văn học đã được tái bản, các khái niệm thuộc lĩnh vực tiếp nhận văn học do Lại Nguyên Ân viết, trước đó, các mục từ này đã xuất hiện trong cuốn 150 thuật ngữ nghiên cứu văn học – 1999.

Sẽ là một thiếu sót nếu không kể đến các khái niệm của mỹ học tiếp nhận như: kinh nghiệm thẩm mỹ, khoảng cách thẩm mỹ, văn cảnh, cụ thể hóa, đồng nhất hóa, hiện thời hóa, tầm chờ đợi, tính bất định, xác định giao tiếp, tính phi tình thế, nghĩa ảo, lập nghĩa, dãy văn học và tự động hóa trong công trình Các khái niệm và thuật ngữ của các trường phái nghiên cứu văn học ở Tây Âu và Hoa Kỳ thế kỷ XX qua bản dịch của Đào Tuấn Ảnh, Trần Hồng Vân, Lại Nguyên Ân. Trong cuốn này mục từ tổng quan mỹ học tiếp nhận được định nghĩa khá chi tiết và đầy đủ. Trong số những tài liệu tiếng Việt về lý thuyết tiếp nhận mà chúng tôi đọc được, thì cuốn sổ tay này là một tài liệu đáng tin cậy. Cho đến hôm nay, khi mà chúng ta chưa đào tạo được những chuyên gia có thể tiếp cận được với nguyên gốc những công trình của trường phái Konstanz thì hướng tìm hiểu học thuật phương Tây thông qua học thuật Nga là một hướng khả thi, ít ra trong thời gian trước mắt như nhóm dịch giả đã viết ở đầu sách.

Tác giả Lê Thị Hồng Vân cũng đã có các bài viết về vấn đề tiếp nhận văn học đáng chú ý như: Ảnh hưởng của môi trường văn hóa xã hội đối với việc tiếp nhận văn học trong nhà trường hiện nay (2001); Quan niệm về tác phẩm văn học trong lý luận phê bình văn học phương Tây hiện đại (2004); Người đọc như là một nhân tố tất yếu của tác phẩm văn học (2004); Sự tương tác giữa mã của người gởi và mã của người nhận trong tiếp nhận văn học (2010); Sự tương tác giữa người đọc và văn bản trong hoạt động sáng tạo văn học (2010). Đây là những bài viết có liên quan mật thiết đến luận án tiến sĩ của tác giả Tác phẩm văn học nhìn từ mối quan hệ giữa văn bản và người đọc, bảo vệ năm 2007 tại Viện Văn học .

*
H. R. Jauss và W. Iser hai nhà nghiên cứu tiêu biểu về lý thuyết tiếp nhận của trường phái Konstanz

Sau khi được đưa vào giảng dạy ở bậc đại học từ năm 1986 và ở bậc học phổ thông từ năm 1992, lý thuyết tiếp nhận còn được gọi là phương pháp lịch sử – chức năng đã chứng minh được khả năng và triển vọng của mình qua việc triển khai thành công của các đề tài khoa học cấp bộ về tiếp nhận văn học Mỹ tại Việt Nam của Nguyễn Hữu Hiếu – 2001, về tiếp nhận L.Tolstoi của Nguyễn Văn Kha – 2004; hoặc các luận án tiến sỹ như: Lịch sử tiếp nhận Truyện Kiều của Phan Công Khanh -2001, Vấn đề tiếp nhận Dostoievski tại Việt Nam của Phạm Thị Phương -2002, Thơ Pushkin trong đời sống văn học Việt Nam (từ góc độ dịch nghệ thuật và tiếp nhận văn học), luận văn thạc sỹ Ngữ văn, Đại học KHXH và NV TP.HCM (2000) của Vũ Xuân Hương, Việc tiếp nhận văn xuôi cổ điển Nga thế kỷ XIX ở Việt Nam của Trần Thị Quỳnh Nga – 2005, luận án này in thành sách năm 2010 có tiêu đề Tiếp nhận văn xuôi Nga thế kỷ XIX ở Việt Nam. Bản thân những vấn đề của lý thuyết tiếp nhận như mối quan hệ giữa văn bản và người đọc cũng được bước đầu giải quyết qua luận án Tác phẩm văn học nhìn từ mối quan hệ giữa văn bản và người đọc của Lê Thị Hồng Vân – 2007, Vấn đề chủ thể tiếp nhận qua lịch sử tiếp nhận Thơ mới của Mai Thị Liên Giang – 2008… Gần đây, theo quan sát của người viết thì tạp chí Nghiên cứu Văn học của Viện Văn học khi làm số chuyên đề về các nhà văn cổ điển nước ngoài thì bình diện tiếp nhận tại Việt Nam cũng đã được chú ý, mà các bài viết như Tiếp nhận Gogol ở Việt Nam qua bản dịch Những linh hồn chết của Đào Tuấn Ảnh, số 5/2009, hay L.Tolstoi ở Việt Nam – giai đoạn từ 1954 đến nay của Trần Thị Quỳnh Nga, số 12/2010, … là những ví dụ tiêu biểu.

Sự kiện gần đây nhất có liên quan đến lý thuyết tiếp nhận là cuộc trao đổi giữa Đỗ Lai Thúy và Trần Đình Sử xoay quanh bài viết Khi người đọc xuất hiện, bài này vốn đã được công bố từ năm 2006 và sau cuộc trao đổi trở thành một chương sách trong công trình Phê bình văn học con vật lưỡng thê ấy, cuộc trao đổi xoay quanh vấn đề người đọc cổ điển và người đọc hiện đại với các tiêu chí như: đứng ngoài/ đứng trong, thụ động/ chủ động, tuyến tính/phi tuyến tính, nghĩa tồn tại/ nghĩa kiến tạo.

3. KẾT LUẬN

Với những gì đã trình bày sơ lược trên đây về quá trình tiếp nhận, giới thiệu và vận dụng lý thuyết tiếp nhận trong giới nghiên cứu ở Việt Nam, có thể thấy rằng giới nghiên cứu đã nắm bắt được những vấn đề cốt lõi, dù rằng chưa thật đầy đủ và hệ thống như Nguyễn Văn Dân đã nhận xét. Điều này là hiển nhiên, vì đây là một lý thuyết mới, còn đang trên đường hoàn thiện như những bậc thầy của nó có lần phát biểu. Tuy nhiên, những ý kiến của các nhà nghiên cứu ở nước ta đã góp phần khẳng định vị trí của lý luận tiếp nhận ở Việt Nam.

Việc nó đã được nghiên cứu và giảng dạy từ bậc phổ thông đến sau đại học một lần nữa chứng tỏ sức sống cũng như những tiềm năng và những kết quả – hiệu quả mà nó mang lại cho việc nghiên cứu văn học ở nước ta.

Vận dụng lý thuyết tiếp nhận vào nghiên cứu văn học Việt Nam ở các cấp độ tác phẩm như Truyện Kiều, tác giả như Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Đình Chiểu; hay các tác giả thuộc văn chương hiện đại như Vũ Trọng Phụng, Hàn Mạc Tử…; hay trào lưu như phong trào Thơ Mới, hay văn học kháng chiến chống Pháp so với văn học 1932-1945 trước đó về tầm đón đợi sẽ là những tiền đề, bước đầu cho việc bổ xung vào lịch sử văn học Việt Nam một phương diện mới: lịch sử của người đọc, lịch sử tiếp nhận.

————————————————–

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Huỳnh Vân. 1990. Quan hệ văn học hiện thực và vấn đề tác động, tiếp nhận và giao tiếp thẩm mỹ, trong Văn học và hiện thực. Hà Nội: Nxb. Khoa học xã hội.Huỳnh Vân. 1990. Nhà văn, bạn đọc và hàng hóa sách hay văn học và sự dị trị. Tạp chí Văn học. Số 6.Huỳnh Vân. 2009. Vấn đề tầm đón đợi và xác định tính nghệ thuật trong mỹ học tiếp nhận của Hans Robert Jauss. Nghiên cứu Văn học. Số 3.Huỳnh Vân. 2010. Hans Robert Jauss: Lịch sử văn học là lịch sử tiếp nhận. Nghiên cứu Văn học. Số 3.M. B. Khrapchenko. 1978. Thời gian và cuộc sống của tác phẩm văn học. Trong Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học, Nhà xuất bản Tác phẩm mới, Hà Nội, trang 289-331. (Người dịch: Lê Sơn – Nguyễn Minh).Malfred Nauman. 1978. Song đề của “Mỹ học tiếp nhận”. (Người dịch: Huỳnh Vân). Tạp chí Văn học. Số 4.Nguyễn Văn Dân. 1985. Tiếp nhận“mỹ học tiếp nhận” như thế nào? Thông tin Khoa học xã hội, số 11 (89) 1985.Nguyễn Văn Dân. 1986. Nghiên cứu sự tiếp nhận văn chương trên quan điểm liên ngành. Tạp chí Văn học. Số 4.Nguyễn Văn Dân – Trần Đình Sử và tác giả khác. 1991. Văn học nghệ thuật và sự tiếp nhận. Viện Thông tin Khoa học xã hội, Hà Nội (Nguyễn Văn Dân biên tập và giới thiệu).Nguyễn Thị Thanh Hương. 1993. “Hanx Rôbơc Daux (Hans Robert Jauss) người sáng lập trường phái mỹ học Công – xtăng (Konstanz). Tạp chí Văn học. Số 6.Nguyễn Văn Hạnh. 1971. Ý kiến của Lê-nin về mối quan hệ giữa văn học và đời sống. Tạp chí Văn học. Số 4.Nguyễn Văn Hạnh – Huỳnh Như Phương. 1998. Lý luận văn học, vấn đề và suy nghĩ. Hà Nội: Nxb. Giáo dục.Phương Lựu. 1997. Tiếp nhận văn học. Hà Nội: Nxb. Giáo dục.Trần Đình Sử. 1986. Bạn đọc và tiếp nhận văn học. Trong Phương Lựu, Trần Đình Sử, Lê Ngọc Trà, Lý luận văn học. Tập I. Hà Nội: Nxb. Giáo dục.Trương Đăng Dung.1998. Từ văn bản đến tác phẩm văn học. Hà Nội: Nxb. Khoa học xã hội.Trương Đăng Dung. 2004. Tác phẩm văn học là quá trình. Hà Nội: Nxb. Khoa học xã hội.

1. Trong “Lời nói đầu” cuốn Văn chương như là quá trình dụng điển của mình, Ngô Tự Lập đã dẫn ra Sơ đồ Aristotle và nhận xét của M.H.Abrams trong Chiếc gương và ngọn đèn: Lí thuyết lãng mạn và truyền thống phê bình (1953): “Mặc dù bất kì lí thuyết nào cũng đều có tính đến cả bốn yếu tố, nhưng mỗi lí thuyết chỉ chủ yếu hướng đến một yếu tố mà thôi. Điều này có nghĩa là, nhà nghiên cứu có xu hướng lấy một trong bốn yếu tố làm cơ sở cho việc định nghĩa, phân loại, phân tích tác phẩm nghệ thuật, cũng như làm tiêu chí chính để đánh giá”. Bốn yếu tố mà M.H.Abrams đề cập là tác phẩm, tác giả, độc giả thực tại, mà trong đó, theo Sơ đồ Aristotle, thì tác phẩm là yếu tố trung tâm. Ngô Tự Lập đi đến khẳng quyết: Các lí thuyết văn học tiếp cận văn chương theo những cách khác nhau và có thể được phân loại theo những tiêu chí khác nhau. Tuy nhiên, có một điểm chung tối quan trọng không thể chối cãi: Tác phẩm văn học là một hiện tượng sử dụng ngôn ngữ trong đó không thể thiếu vai trò của tác giả, độc giả cũng như thực tại, cho dù mỗi yếu tố tham gia ở những mức độ khác nhau.(1)

Lí thuyết tiếp nhận tập trung vào quan hệ giữa văn bản và người đọc, vào cơ chế tạo nghĩa của văn bản khi tương tác với người đọc.


*

*

*

*

Về thực chất, tiếp nhận văn học là một cuộc giao tiếp đối thoại tự do sáng tạo giữa người đọc và tác giả qua tác phẩm, ở đó người đọc cụ thể hóa hiện thực hóa tác phẩm trong trí tưởng tượng của mình. Trong hoạt động này, người đọc có thể gặp gỡ với tác giả, trở về với tâm ảnh của tác giả, nhưng cũng có thể cách xa, rất xa so với tác giả. Tiếp nhận văn học thúc đẩy ảnh hưởng văn học, làm cho tác phẩm không đứng yên mà luôn luôn lớn lên phong phú thêm trong trường kì lịch sử, tạo thành đời sống lịch sử của tác phẩm. Nếu lí luận tiếp nhận truyền thống chủ yếu quan tâm tới sự gặp gỡ của hai chủ thể cá nhân của tác giả và người đọc, của hai “thế giới nội tâm”, của ý thức (và vô thức) tác giả với ý thức (và vô thức) người đọc, thì lí thuyết tiếp nhận hiện đại bổ sung thêm bình diện xã hội học, tính quy định văn hóa lịch sử đối với sự gặp gỡ kia. Ý nghĩa của lí luận tiếp nhận hiện đại là tường minh được cơ chế hoạt động tiếp nhận và từ đó cho thấy sự tồn tại đích thực của tác phẩm cũng như số phận lịch sử của nó.(2)

Các nhà lí thuyết tiếp nhận hiện đại như H.R.Jauss, W.Iser, M.Naumann, D.Schlenstedt, R.Ingarden… cho rằng, tác phẩm văn học là một “đề án tiếp nhận”, một “tiềm năng để tiếp nhận”, một “kết cấu vẫy gọi”, một “chương trình nhận thức”, một “sơ đồ”… Tuy nhiên, “đề án”/ “kết cấu”/ “chương trình”/ “sơ đồ” ấy chỉ được khai triển, được hiện thực hoá trong “tầm đón” của người đọc, với khả năng “đồng sáng tạo” của anh ta. Muốn thế thì tự thân dự đồ văn chương ấy phải giàu “tiềm năng”, được đặt ở chế độ động và mở, có khả năng mở ra những “chân trời” tiếp nhận nơi những “người đọc tiềm ẩn” - những người đọc được trông mong trong kết cấu của văn bản. M.B.Khrapchenco xem tác phẩm như một máy thu có nhiều dải sóng mà người nhận là kẻ chỉnh sóng để dò bắt được đúng cái “chương trình” mà mình mong đợi.

Quyết định số phận sáng tác mỗi thời là tầm đón của người đọc, thế hệ người đọc, cộng đồng người đọc. Tầm đón là khái niệm do K.Mannheim - nhà triết học và xã hội học người Đức nêu ra, được Jauss vận dụng vào văn học. Theo Jauss, tầm đón là tiền đề tiếp nhận tác phẩm của người đọc. Nó bao gồm kinh nghiệm và tri thức có được từ trong các tác phẩm đã đọc, mức độ quen thuộc đối với các hình thức và thủ pháp văn học khác nhau cũng như các điều kiện chủ quan khác (địa vị kinh tế, chính trị, trình độ được đào tạo, sự từng trải và kinh nghiệm sống, trình độ thưởng thức và thị hiếu nghệ thuật, hứng thú cá nhân, tính cách và các tố chất…). Jauss cho rằng tầm đón được biểu hiện cụ thể ở ba phương diện: 1/ sự hứng thú và đòi hỏi đối với hình thức, phong cách, thi pháp của tác phẩm, gắn liền với những hình thức thể loại đã biết; 2/ năng lực cảm nhận, trình độ lí giải gắn với một môi trường lịch sử văn học cụ thể; và 3/ sự đối lập của tưởng tượng và thực tại, của các chức năng thực tế và chức năng nghệ thuật của ngôn ngữ.(3)

Tán thành với các nhà lí thuyết tiếp nhận hiện đại, đặc biệt là nhận định của Jauss, rằng tính lịch sử của văn học chính là ở những trải nghiệm vốn có của bạn đọc đối với tác phẩm văn học, rằng không thể hiểu được nghệ thuật nếu chỉ nhìn vào tác phẩm và hành vi sáng tạo ra nó, khoảng năm mươi năm nay, các nhà nghiên cứu - dịch giả như Nguyễn Văn Hạnh, Trần Đình Sử, Phương Lựu, Lê Hồng Sâm, Đặng Anh Đào, Trương Đăng Dung, Lã Nguyên, Nguyễn Hưng Quốc, Phùng Văn Tửu, Nguyễn Văn Dân, Hoàng Phong Tuấn… đã hứng khởi tích cực lan toả lí thuyết tiếp nhận hiện đại vào đời sống văn học Việt Nam. Năm 1971, Nguyễn Văn Hạnh đã phát biểu: Trong khâu sáng tác, giá trị là cố định và ở trong thế khả năng; ở trong khâu thưởng thức, trong quan hệ với quần chúng, giá trị mới là hiện thực và biến đổi. Quan điểm nghiên cứu, đánh giá tác phẩm này sẽ lưu ý nhà văn đến độc giả, buộc người nghiên cứu trong khi đánh giá tác phẩm không thể chỉ dừng lại ở việc đối chiếu cái được phản ánh và cái phản ánh, ở sự phân tích cấu trúc bên trong của tác phẩm, mà phải chú ý đến tác dụng thực tế của tác phẩm, phản ứng của người đọc đối với nó, cơ sở xã hội - lịch sử và tâm lí của sự tiếp thu.(4) Về sau, Trần Đình Sử cũng khẳng quyết: Nếu xem hoạt động của văn học gồm hai lĩnh vực lớn là sáng tác và tiếp nhận thì bản thân sự tiếp nhận đã hàm chứa một nửa lí luận văn học.(5) Nhờ công của những nhà nghiên cứu - dịch giả kể trên trong việc giới thiệu lí thuyết cũng như công của rất nhiều nhà nghiên cứu - phê bình trong việc ứng dụng thực hành lí thuyết vào những trường hợp cụ thể, trong gần nửa thế kỉ qua, cộng đồng văn học Việt Nam dần ý thức sâu sắc, rằng trong hai loại lịch sử khác nhau của tác phẩm văn học là lịch sử sáng tạo và lịch sử tiếp nhận thì loại lịch sử sau có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bởi chính loại lịch sử này một mặt làm cho tác phẩm trở nên giàu có đa bội hơn hẳn chính bản thân chúng, mặt khác mở rộng và thậm chí làm thay đổi tầm nhìn tầm cảm nhận của người đọc, khi mà cái đọc của họ đã có cơ hội cọ xát đối thoại với rất nhiều cái đọc khác cả trên hai chiều đồng đại và lịch đại.

 

2. Đặc biệt, đối với một hiện tượng văn học gây nhiều làn sóng tiếp nhận trái chiều, thì việc phục dựng lại cái diễn trình lịch sử mà nó được đọc được diễn dịch được đánh giá sẽ giúp làm sáng tỏ nhiều vấn đề quan trọng, không chỉ liên quan đến “đời sống” của nó - cái đời sống riêng nằm ngoài khả năng can dự kiểm soát của tác giả - mà còn liên quan đến các lĩnh vực khác nhau của nghiên cứu văn học như lịch sử văn học, lí luận văn học, phê bình văn học.

Chẳng hạn, thơ Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Dương Tường, Hoàng Hưng là hiện tượng gây nhiều tranh cãi, nhiều chiều hướng tiếp nhận. “Cách tân” hay là “giết thơ”? “Thơ đến tận cùng” hay là “phản thơ”? Những làn sóng tiếp nhận cứ va đập vào nhau rồi đẩy về đầu mút của hai thái cực. Nghiên cứu thực tiễn tiếp nhận thơ của nhóm tác giả này, kể từ khi các tập thơ của họ hoặc lần lượt hoặc đồng thời xuất hiện trên thi đàn, sẽ trừu xuất được ít nhiều kết quả khả dụng.

Các tập thơ “lạ” thường được xem là có dấu hiệu của chủ nghĩa hiện đại như Ba sáu bài tình (Lê Đạt - Dương Tường), Ngựa biển, Người đi tìm mặt (Hoàng Hưng), Bóng chữ (Lê Đạt), Bến lạ, Ô mai (Đặng Đình Hưng)... được bắt đầu công bố từ cuối những năm 80 thế kỉ XX. Tuy nhiên, cần lưu ý là thực ra nhiều sáng tác trong số này đã ra đời trước mốc xuất bản khá lâu. Đó là những sáng tác nằm ngoài lề dòng thơ ca chính thống một thời. Như vậy, có thể thấy những nỗ lực cách tân thơ ca của thời kì Đổi mới thật sự đã được manh nha khởi động từ trước đó bởi ý chí sáng tạo âm thầm nhưng không kém phần quyết liệt của những nhà thơ kể trên.

Ngôn từ thơ, nhất là kiểu thơ từ chối “biểu nghĩa”, nỗ lực “làm việc trên chiều năng nghĩa”, tìm đến thủ pháp lạ hóa mờ hóa như trường hợp Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Dương Tường, Hoàng Hưng, càng là nơi tập trung tính mơ hồ đa nghĩa của ngôn từ nghệ thuật, cũng là nơi có khả năng tạo sinh nhiều nhất “mã tiếp nhận”. Điều này cắt nghĩa hiện tượng đa tiếp nhận thơ các nhà thơ này.

Cuộc “đi tìm mặt” của Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Dương Tường, Hoàng Hưng chính là nỗ lực tìm kiếm cho mình một thứ ngôn ngữ mới nhằm cách tân mở ra những hướng mới cho thơ, và mỗi người trong số họ đều đưa ra những tuyên ngôn (hoành tráng) riêng. Tuy nhiên, thơ của họ cách tân không đồng bộ (nghĩa không theo kịp chữ, hình thức không đi liền với nội dung hoặc ngược lại, hay ý chí thể nghiệm hình thức lấn lướt hoặc chênh với cảm xúc tự nhiên...), và không đồng đều (mức độ thành công ở mỗi bài/ câu không giống nhau). Do vậy, những người đọc chỉ quan tâm đến những điểm thành công thì vồ vập cổ suý, còn những ai chỉ chăm chăm vào những điểm kém/ thất bại/ cách tân chưa tới, thấy khoảng cách giữa tuyên ngôn và thực tế sức bật tài năng ở các tác giả này khá xa thì lớn tiếng phủ định sạch trơn.

Từ sau 1954, giới độc giả Việt Nam có sự phân hoá sâu sắc về văn hoá đọc. Lí thuyết văn học mà họ tiếp cận có thể là lí thuyết đã có phần lỗi thời so với thực tiễn sáng tác mới, có thể là thứ lí thuyết hiện đại phong phú đa dạng có nguồn cội từ những quan niệm tư tưởng triết - mĩ khác nhau. Gắn với những khung lí thuyết như ngôn ngữ học, phân tâm học, cấu trúc luận, hình thức luận, hiện tượng luận, “phê bình mới”..., một bộ phận người đọc thơ Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Dương Tường, Hoàng Hưng không nhất nhất đi tìm cái gọi là “nghĩa” của những từ/ câu/ đoạn/ bài, không lấy việc “hiểu” làm mục đích, chỉ cần bài thơ mang lại cho họ một cảm giác một ấn tượng là đủ; ngược lại, một bộ phận người đọc không lấy những lí thuyết này làm khung nhận thức, bất lực trong việc “diễn xuôi” thơ nên vội vàng cho thơ của các nhà thơ kể trên là “hũ nút”, là “phản thơ”.

Người ta khó tìm được tri âm rộng rãi trong quan niệm về yếu tính của thơ, nên khi đọc thơ Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Dương Tường, Hoàng Hưng, những ai quan niệm yếu tính của thơ là cách làm chữ là cách tổ chức ngôn ngữ thì sẽ cho đây là “thơ đến tận cùng”, tác giả của chúng là những “phu chữ”, còn những ai quan niệm yếu tính của thơ là thông điệp là điều chia sẻ giãi bày thì sẽ cho đây là thơ “hũ nút”. Cũng vậy, khái niệm hay dở mới cũ của thơ thường trừu tượng và mang tính chủ quan cá nhân, nên người ta khó có thể có tiếng nói chung khi tiếp nhận thơ của các nhà thơ này.

Một bộ phận chủ thể tiếp nhận - phê bình luôn cảnh giác với thứ thơ mà họ cho là “trò xiếc chữ”, “phá phách”, “bên lề”, “phụ lưu”, “bàng thống”, thứ thơ bị cho là “du nhập rác tri thức về”, “lai căng”, “nhố nhăng”, “vong bản”… Đã thế, công việc cách tân thơ của Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Dương Tường, Hoàng Hưng lại đi kèm những tuyên ngôn như “chôn Thơ mới” dễ bị quy chụp là gây hấn phá bĩnh phạm thượng. Thêm nữa, một số trong những nhà thơ này bị gọi là “bọn Nhân văn - Giai phẩm”, “bọn có vấn đề”... Cứ như thế, tâm thế định kiến (hoặc về thẩm mĩ hoặc về chính trị hoặc về cả hai) chi phối cái đọc của nhiều người. Với bộ phận chủ thể tiếp nhận - phê bình này, đây là thơ “vô nghĩa”, “hũ nút”, “phá chữ”, “làm bẩn chữ”, “vong bản”, “đưa thơ vào thế chân tường”, “giết thơ”, “phản thơ”... Ngược lại, một bộ phận người đọc thơ bằng tâm thế đón đợi cổ vũ cái mới cái khác, không quan tâm đến những yếu tố phi thơ ngoài thơ. Họ đòi hỏi, thời đại khác chất liệu ngôn ngữ thơ cũng phải khác. Do vậy, khi nhìn vào các sản phẩm cách tân thành công, độc sáng của các nhà thơ kể trên, họ cho đây là “thơ đến tận cùng”, là niềm kiêu hãnh của nền thơ Việt Nam hiện đại.

Theo Ngô Tự Lập, “văn chương như là quá trình dụng điển”. Bài thơ là một kí hiệu được thiết lập tức thời giữa nhà thơ và người đọc trong quá trình tiếp nhận. Tài năng của nhà thơ nằm ở khả năng phán đoán được cái vốn “điển” tiềm ẩn ở người đọc, cái mà nhà thơ trông đợi sẽ trở thành “điển” chung tức thời giữa anh/ chị ta và người đọc khi tiếp nhận văn bản. Vì các độc giả khác nhau, vốn “điển” tiềm ẩn có thể được kích hoạt trong kí ức họ cũng khác nhau, nên cùng một bài thơ nhưng không bao giờ có sự tiếp nhận như nhau bởi những độc giả khác nhau.(6) Đa vốn “điển” nơi những chủ thể tiếp nhận khác nhau góp phần cắt nghĩa hiện tượng đa tiếp nhận thơ Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Dương Tường, Hoàng Hưng.

Thói quen đọc thơ, quán tính thẩm mĩ quy định lối thưởng thức thơ của một bộ phận người đọc. Bài/ tập thơ nào không vừa vặn với tầm mong đợi vùng thưởng ngoạn của họ thì bị phủ nhận chối bỏ. Trong một nền văn hóa còn đề cao tính đại chúng, những cách tân có khi quá bạo liệt của thơ Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Dương Tường, Hoàng Hưng vượt ra ngoài mọi khuôn khổ cũ khiến phản ứng chung của nhiều người là phủ nhận ngay tư cách thơ của những bài thơ được xem là mới trước khi đặt vấn đề là chúng hay hay không hay. Ngược lại, một bộ phận người đọc can đảm vứt bỏ những hình dung quen thuộc của mình về thơ và đủ hứng thú để tham dự vào cuộc phiêu lưu ngôn từ này. Với họ, thơ Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Dương Tường, Hoàng Hưng là niềm khoái thú đặc biệt trong giải mã, và do vậy, họ cho đây là thứ thơ “cách tân”, “thơ đến tận cùng”.

Trước khi thơ Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Dương Tường, Hoàng Hưng được công bố khoảng nửa thế kỉ, Thơ mới đã làm nên một cuộc đại cách mạng, “một thời đại trong thi ca” cả về diện và đỉnh. Một khi thực tế sức bật tài năng có khoảng cách khá xa so với những tuyên ngôn (hoành tráng) dẫn đến thành tựu thơ của các nhà thơ đi sau không thể vượt qua được thành tựu Thơ mới, thì người đọc thất vọng, cực đoan hơn là phủ nhận chế giễu cũng là điều dễ hiểu. Với nữa, sau khoảng ba mươi năm im lặng từ hậu thời kì Nhân văn - Giai phẩm, các nhà thơ này tái xuất, sự mong đợi kì vọng của mọi người lúc đó đối với họ là rất lớn, nên người đọc đã thất vọng trước những bài/ tập cách tân chưa tới trong loạt thơ gọi là cách tân mà các nhà thơ này trình làng. Thêm nữa, sau nhiều năm chiến tranh, sự tiếp xúc trực tiếp và đồng thời của độc giả Việt Nam với thơ hiện đại thế giới bị hạn chế, người ta vốn dị ứng với cái lạ và chưa kịp có nhu cầu đổi thay mĩ cảm, do vậy, những tập thơ “lạ” của Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Dương Tường, Hoàng Hưng chưa giành được thiện cảm của số đông, do chúng không may mắn có được một lớp độc giả lí tưởng như thời Thơ mới - những trí thức Tây học đang hăm hở với cái mới và đã từng ít nhiều được làm quen với cái mới qua nền văn học Pháp thế kỉ XIX trong nhà trường. Tuy nhiên, bên cạnh việc gặp bối cảnh bất lợi như vừa trình bày thì những tập thơ của Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Dương Tường, Hoàng Hưng được công bố giữa bối cảnh không ít thuận lợi. Tinh thần đổi mới đã thực sự thổi một luồng gió mới vào đời sống văn học nói chung và đời sống thơ nói riêng. Trong thời đại thế giới ngày một “phẳng”, đời sống thơ nước nhà không ngừng trở nên giàu có bởi những góc nhìn hướng nhìn tầm nhìn mới do những hệ thống lí thuyết mới trên thế giới soi chiếu. Chủ nghĩa hậu hiện đại mở ra sự khủng hoảng phân rã của những cái toàn trị nhất quán, là một môi trường văn hóa thuận lợi cho sự phát triển của các dòng văn học bị coi là “ngoại biên”, “phụ lưu”, “bàng thống”.(7) Nhờ tinh thần “giải trung tâm” trong văn nghệ mà thơ Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Dương Tường, Hoàng Hưng đã ngày càng có cơ hội nổi lên, trở thành bình đẳng với mọi hiện tượng văn học khác. Hệ quả của hơn ba mươi năm đổi mới và hội nhập là đã tạo ra một không gian thoáng mở. Văn hoá đọc không ngừng được cải thiện. Trình độ đọc không ngừng được nâng cao. Người đọc càng ngày càng ghi nhận khẳng định những đóng góp nhất định của các nhà thơ kể trên.

Xem thêm: 20 Cách Tết Tóc Đẹp Đơn Giản Dễ Làm Được Yêu Thích Nhất Năm 2021

Như vậy, nếu đi sâu khảo sát miêu tả cái “dây chuyền tiếp nhận” thơ Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Dương Tường, Hoàng Hưng từ khi chúng được công bố cho đến nay và nỗ lực kiến giải hiện tượng đa tiếp nhận đó thì một cách nhìn nhận đánh giá toàn diện thấu đáo công bằng khách quan hơn về thơ của các tác giả này sẽ được kiến tạo, những đóng góp của họ trong sự vận động của thơ ca đương đại sẽ không bị bỏ sót, đồng thời, những vấn đề cốt lõi của lí thuyết tiếp nhận sẽ được thêm cơ hội tham chiếu và củng cố. Ngoài ra, thiết thực hơn, bức tranh toàn cảnh lịch sử tiếp nhận thơ Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Dương Tường, Hoàng Hưng và một cách đánh giá lại thơ các tác giả này sẽ là đường dẫn khả dụng để đi đến câu chuyện đang để ngỏ, đang ngổn ngang bộn bề, chưa bao giờ nguội tính thời sự: tiếp nhận - phê bình, sáng tác, lí luận thơ cách tân đương đại. Đối với tiếp nhận - phê bình, từ đây người ta có ý thức hơn trong việc nâng tầm đón nhận khi gặp thơ “khó”, thiết tạo cách đọc mới khi gặp thơ “lạ”; ứng xử với thơ bằng tâm thế không định kiến, bằng thái độ không phủ định sạch trơn; không a dua nói theo, không cổ súy thái quá đối với cả những trường hợp cách tân chưa tới, cách tân thất bại. Đối với sáng tác, từ đây người ta một mặt táo bạo hơn trong cách tân, dũng cảm hơn trong tìm tòi thể nghiệm, mặt khác biết nói “không” với lối cách tân vô điều kiện. Đối với lí luận thơ, từ đây người ta không đóng khung lí thuyết, không đông cứng thể loại; coi trọng vai trò hướng đạo của lí luận đối với sáng tác, tiếp nhận - phê bình...

 

3. Không có lí thuyết nào là toàn bích, độc tôn. Như đã nói ở đầu bài viết, mỗi lí thuyết văn học tiếp cận văn chương theo những cách khác nhau, bằng việc tập trung vào một bình diện khác nhau. Nếu tuyệt đối hoá một lí thuyết nào đấy khi nghiên cứu văn học thì đồng nghĩa với tự biến mình thành “thầy bói xem voi”, tự đẩy mình đi từ cực đoan này đến cực đoan khác. Một lí thuyết bất kì đều đang ở trạng thái dang dở, đang nỗ lực tự hoàn thiện, vừa bình đẳng với các lí thuyết khác vừa có nguy cơ bị phủ định thay thế bởi một lí thuyết mới. Do vậy, một cách hành xử khôn ngoan là tỉnh táo gạn đục khơi trong lí thuyết, là cân bằng hai mặt tích cực và tiêu cực của lí thuyết bằng việc không ngừng đa dạng hóa lí thuyết. Với tinh thần thức nhận như vậy, không khó để nhận ra, bên cạnh những hạt nhân hợp lí thì lí thuyết tiếp nhận hiện đại cũng bộc lộ những giới hạn, bất khả của nó, đặc biệt là khi lí thuyết này cực đoan dẫn dụ người nghiên cứu chú mục vào quan hệ giữa tác phẩm và người đọc, trong đó cường điệu hoá đến mức tuyệt đối hoá vai trò của người đọc. Phương Lựu phát biểu, vai trò tác dụng quan trọng của người đọc là quá rõ ràng, nhưng tất cả vai trò và tác dụng quan trọng đó chỉ diễn ra khi có tác phẩm. “Không có tác phẩm thì cố nhiên người vẫn còn đây, nhưng dứt khoát không có cái gọi là người đọc”.(8)

Không thể phủ nhận, rằng phương thức tồn tại của tác phẩm văn học, thực chất, chính là quá trình tạo lập đời sống cụ thể của văn bản văn học qua sự tiếp nhận của người đọc. Cũng không thể phủ nhận, rằng tác phẩm văn học không đồng nhất trùng khít với mọi sự đọc, bởi không ai có thể hiểu hoàn toàn đúng về tác phẩm, không có ý kiến phát biểu duy nhất đúng về tác phẩm; hơn thế, dù động cơ tâm thế tầm đón như thế nào thì đọc “nhầm” là một hiện tượng phổ biến: khen nhầm cũng như chê nhầm. Antoine Compagnon từng đặt ra câu hỏi: “Nếu ý nghĩa một văn bản là tổng số các diễn giải nó đã nhận được, thì tiêu chuẩn nào cho phép ta phân biệt một diễn giải có hiệu lực với một diễn giải sai? Khái niệm hiệu lực có thể duy trì được hay không?”.(9) Một câu hỏi khác cũng có thể được đặt ra là: Vậy thì cái gì bảo đảm sự đồng nhất trùng khít của một tác phẩm với chính nó?

Ấn tượng thẩm mĩ di động giữa hai cực (tác phẩm và người đọc), cho nên sự thay đổi của một trong hai cực đó đều làm hình thành những giá trị thẩm mĩ khác nhau, đặc biệt là ở cực chủ thể tiếp nhận, nơi mà thế giới nội tâm luôn có những biến động vô thường bất thường, vì thế khả năng biến thể của các giá trị thẩm mĩ liên quan